Wednesday, December 31, 2014

Stata Gedit Integration

Integrate Gedit with Stata

1. Go to Edit - Preferences - Plugins and activate "External Tools"
(if you cannot activate any plugins, run gedit as a root with "sudo gedit")
2. Go to Tools - Manage External Tools
3. Click on "+" to add a new tool
4. Name the new tool as you wish, e.g., Stata dolines
5. Copy the body of "Gedit_stata_integration_script.txt" in the command space
6. Choose the keyboard shortcut, e.g. "F9"
7. Choose to send only currently highlighted text from the drop-down menu
do /tmp/stata


PS: You might need to install xdotool if it is not currently installed:
sudo get-apt install xdotool

Stata Syntax Highlighting in Gedit

(All credits go to: http://linuxscrapbook.wordpress.com/2010/12/01/stata-syntax-highlighting-for-gedit/ and
http://forums.debian.net/viewtopic.php?f=8&t=55704)

1. Copy  stata.lang file to /usr/share/gtksourceview-3.0/language-specs (for use by all users on the system, requires superuser privileges)

or to ~/.local/share/gtksourceview-3.0/language-specs (for use with your account only) For the latter option, you may have to create the directory first:

mkdir -p ~/.local/share/gtksourceview-3.0/language-specs

For Windows: copy stata.lang file to ProgramFiles (x86)\gedit\share\gtksourceview-3.0.

2. Restart gedit.

.do files are now recognized automatically. For manual selection of the Stata Highlight Mode, go to View > Highlight Mode > Scientific > stata


Nice color scheme in Gedit:

1. Copy solarized_light.xml or solarized_dark.xml (or both) to /usr/share/gtksourceview-3.0/styles (or respective directory) and choose the one you like the best





Source

#!/bin/sh
#!/bin/bash

# Clear temporary-do file if it already exists

[ -e /tmp/stata.do ] && rm /tmp/stata.do

# Write each highlighted lign in the temporary do-file /tmp/stata.do
# - "OLDLINE" is needed just in case if the last line doesn't end with an EOL symbol (in this case, "read LINE" returns "false" and this line is not written in the temporary do-file

while read LINE; do
  echo $LINE >> /tmp/stata.do
  OLDLINE=$LINE
done
if [ "$LINE" != "$OLDLINE" ] ; then
    echo $LINE >> /tmp/stata.do
fi

# check whether the Stata process is runnung already
# for other stata versions change the window title (you can read it on the top of the open Xstata window)

 STATAID=`xdotool search --name "Stata/SE 12.0" | head -n 1`

# if Stata is already running, activate the window; if not, launch the Stata process, wait until it is running, and then activate the window

 if [ -n "$STATAID" ]; then
     xdotool search --name "Stata/SE 12.0" windowactivate %1
 
   # if runnning 2 Stata windows; choose the necessary window number %1 or %2 (play around to identify which window you need)

   
 else
    /usr/local/stata12/xstata-se  &
    sleep 1
    search --name "Stata/SE 12.0" windowactivate

fi

# In the Stata window, activate the command line with Ctrl+4 ,
# and then type "do /tmp/stata [RETURN]"

xdotool key "ctrl+4" && xdotool type "do /tmp/stata" && xdotool key "Return"




Tuesday, December 23, 2014

ưu tiên địa chỉ IP wifi

Vào mục DHCP -> Address Reservation để đặt IP của máy thành cố định (dựa vào MAC Address).
Kế tiếp vào phần Bandwidth Control -> Control Settings -> Check vào Enable Bandwidth Control -> điền 1 số thông tin về gói ADSL (gồm tốc độ upload (Egress Bandwidth) và download (Ingress Bandwidth) tối đa)
Cũng tại phần Bandwidth Control, bạn vào Rule List, chọn New, điền Ip của máy vào, nhập tốc độ down và upload tối thiểu và tối đa.

Tương tự, nếu Muốn giới hạn băng thông nhà hàng xóm cũng làm như vậy
Cái này là làm trên con TLWR841N, chắc  TP-Link đều giống thế.

Tuesday, December 16, 2014

Tỷ giá

Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước, do đó vấn đề thanh toán, định giá, so sánh ,phân tích đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều. Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc trao đổi tiền của nước khác. Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật của nước đó và đặc điểm riêng của nó, vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải so sánh giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau. Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái.
 Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế nhạy cảm và rất phức tạp. Kinh tế thị trường thường xuyên vận động thì tỷ giá hối đoái cũng như những hiện tượng kinh tế khác biến động là lẽ tất nhiên ,là hợp với quy luật vận động của sự vật, của hiện tượng. Tuy nhiên những diễn biến có tính bất thường, khác lạ của hiện tượng kinh tế tất phải do những nguyên nhân, hoặc do những trục trặc nào đó làm cho hiện tượng kinh tế đó diễn ra “chệch hướng”  theo logic bình thường. Điều đó làm chúng ta phải thận trọng xem xét các nguyên nhân từ mọi phía,một cách toàn diện để có nhận thức, quan điểm đúng đắn, làm cơ sở tin cậy cho việc điều chỉnh các hoạt động thực tiễn. 
1. Các yếu tố tác động tới tỷ giá
Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động,mức giá cả tương đối ở thị trường trong nước,thuế quan và hạn mức nhập khẩu,ưa thích hàng nội so với hàng ngoại.
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ. NSLĐ trong nước tăng lên tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập, dẫn đến sự gia tăng mức cầu của hàng nội dịa so với hàng ngoại nhập, làm cho hàng nội địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội tệ tăng lên(TGHĐ) giảm xuống và ngược lại. Thực tế trên thị trường thế giới TGHĐ của đồng tiền phụ thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó. Một nền kinh tế phát triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá của đồng tiền nước đó.
- Mức giá tương đối ở thị trường trong nước là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến TGHĐ. Theo thuyết mức giá cả tương đối, khi mức giá cả hàng nội địa tăng tương đối so với hàng ngoại nhập thì cầu của hàng nội địa sẽ giảm xuống và đồng nội địa có xu hướng giảm giá để cho hàng nội bán được tốt hơn và ngược lại nó sẽ làm đồng nội tệ có xu hướng tăng giá, bởi vì hàng nội địa vẫn bán tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ.
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu. Chính công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm tăng giả cả của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước. Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá,bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ.Cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá.
2.  Các công cụ điều hành chính sách tỷ giá hối đoái.
- Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức báo động cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng nên lãi suất trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi suất cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu về ngoại tệ sẽ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa. Lãi suất do quan hệ cung cầu của vốn vay quyết định. Còn tỷ giá thì do quan hệ cung cầu về ngoại tệ quyết định. Điều này có nghĩa là những yếu tố để hình thành tỷ giá và lãi suất là không giống nhau, do vậy mà biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá.
- Các nghiệp vụ của thị trường hối đoái : Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp quan trọng nhất của nhà nước để giữ vững ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Việc mua bán ngoại tệ được thực hiện trên nguyên tắc diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp mang tính chất chủ quan của nhà nước. Việc can thiệp này phải là hành động có cân nhắc, tính toán những nhân tố thực tại cũng như chiều hướng phát triển trong tương lai của kinh tế, thị trường tiền tệ và giá cả.
- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia. Khi ngoại tệ vào nhiều, thì sử dụng quỹ này để mua nhằm hạn chế mức độ mất giá của đồng ngoại tệ. Ngược lại, trong trường hợp vốn vay chạy ra nước ngoài quỹ bình ổn hối đoái tung ngoại tệ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành để ngăn chặn giá ngoại tệ tăng. Theo phương pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt , quỹ bình ổn hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán, khi ngoại tệ và nhiều, quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để thu ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái.

Chế độ tỷ giá cố định theo thoả ước Bretton Woods hình thành WB, IMF


1.  Chế độ đồng giá vàng (1880 - 1932):
      Sau một quá trình phát triển lâu dài, tiền thống nhất từ các dạng sơ khai thành hai loại: vàng và bạc sau đó cố định ở vàng. Chế độ bản vị vàng là chế độ ở đó, vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung, chỉ có tiền đúc bằng vàng hoặc dấu hiệu của nó mới có thể đổi lấy nó. Theo đó, đồng tiền của các nước được đổi trực tiếp ra vàng, tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của các đồng tiền, sự so sánh đó được gọi là ngang giá vàng (gold parity).
Ví dụ: 1 GBP = 5 USD có nghĩa là: 1GBP có chứa "một hàm lượng vàng" tương đương với 5 lần hàm lượng vàng của 1 USD. Nói cách khác, ngang giá vàng của GBP so với USD là: GBP/USD = 5.
        Trong chế độ bản vị vàng, khi việc đúc tiền vàng , đổi tiền ra vàng và xuất nhập khẩu vàng được thực hiện tự do thì tỷ giá hối đoái tách khỏi ngang giá vàng là rất ít vì nó bị giới hạn bởi các điểm vàng. Thực hiện xuất nhập khẩu vàng sẽ quay quanh "điểm vàng". Giới hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng giữa các nước hữu quan. Điểm cao nhất của tỷ giá hối đoái gọi là "điểm xuất vàng" vì vượt quá giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy ra khỏi nước". Điểm thấp nhất của tỷ giá hối đoái là "điểm nhập vàng" vì xuống dưới giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy vào trong nước".
Nhờ có đặc điểm trên, chế độ bản vị vàng có tính ổn định cao, tiền tệ không bị mất giá, tỷ giá ít biến động, cán cân thương mại tự động cân bằng. Chế độ này có khả năng tự điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nước, do đó nó có tác động tích cực đối với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu phát triển. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên chế độ bản vị vàng tồn tại không lâu, đến 1914 nó sụp đổ do hàng loạt các nguyên nhân sau:
- Do xu thế phát triển kinh tế thế giới không đồng đều khiến cho một số nước công nghiệp phát triển ngày càng giàu lên, dự trữ vàng lớn do xuất khẩu được nhiều hàng hoá. Còn ở các nước kém phát triển kho vàng ngày càng cạn kiệt do phải nhập khẩu hàng hoá. Do đó, thế giới được chia thành hai khối: các nước kinh tế phát triển và các nước kinh tế kém phát triển.
- Lạm hành việc phát hành tiền vàng, các Chính phủ đã chi tiêu quá lớn dẫn đến việc dự trữ vàng trong kho nhà nước không đủ để đảm bảo cho việc đổi tiền phù hiệu ra tiền vàng, làm cho công chúng có tâm lý sử dụng tiền phù hiệu và cất tiền vàng đi. Ai có vàng không đúc tiền vàng nữa mà dùng để đổi lấy tiền phù hiệu. Dẫn đến tiền phù hiệu được lưu thông rộng rãi trên cơ sở ngang giá vàng. Các nước kinh tế phát triển có đồng tiền được coi là tiền chủ chốt. Các nước kinh tế kém phát triển có đồng tiền được coi là tiền phụ thuộc. Tiền phụ thuộc đến với tiền chủ chốt sẽ đến được với vàng. Vì chỉ tiêu tiền phù hiệu nên các nước lớn đã phát hành một lượng tiền phù hiệu lớn để thao túng kinh tế, chính trị, vơ vét của cải, tài nguyên, xâm chiếm thuộc địa ở các nước kém phát triển. Khi lượng tiền phù hiệu ở trong lưu thông quá lớn thì nó trở lại để đổi lấy tiền vàng sẽ không có lượng vàng đủ lớn để đúc tiền vàng nữa.
Mặt khác, trước đại chiến thế giới I, chính phủ các nước chạy đua vũ trang đã tìm mọi cách vơ vét vàng, vì thế lượng vàng trong lưu thông giảm mạnh, các dấu hiệu tiền tệ, tiền giấy tăng lên, đến khi chiến tranh thế giới năm 1914 bùng nổ, chế độ bản vị vàng tan vỡ. Các nước bắt đầu áp dụng các hình thức biến tướng của ngang giá vàng là chế độ bản vị vàng thoi và chế độ bản vị vàng hối đoái. Các chế độ này không có tính chất ổn định như chế độ bản vị tiền vàng trước năm 1914. Đến năm 1923, Anh kêu gọi các nước thực hiện lại chế độ bản vị vàng nhưng không nước nào tham gia. Năm 1925, Anh đơn phương thực hiện lại chế độ bản vị vàng, các nước cùng nhau phá giá đồng tiền của mình mua GBP, đổi lấy vàng gây nên nạn chảy máu vàng ở Anh. Năm 1931, Anh buộc phải xoá bỏ chế độ đồng giá vàng - bảng Anh.
Đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế  độ bản vị vàng dưới mọi hình thức và điều đó cũng có nghĩa là đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ tỷ giá hối đoái ổn định và sức mua của đồng tiền được giữ vững.
2. Chế độ tỷ giá cố định theo thoả ước Bretton Woods (1946 - 1971)
         Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự thế giới mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội nghị tại Bretton Woods (Mỹ) tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh toán chung. Hội nghị được đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ. Tại đây 56 nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này, các nước cam kết duy trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi biến động không quá  1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay đổi tỷ giá mà không được sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các nước phải can thiệp vào thị trường tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng USD. Điều này cũng có nghĩa là các nước phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho đồng USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở mức 35USD/ounce vàng ( biến động giá cả không quá 24 cent/ounce). USD là đồng tiền chủ chốt số 1 với tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng.
Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng: 1USD = 5,55 FRF thì NHTW Pháp phải duy trì tỷ giá ở mức 1USD = 5,4945 FRF (5,55*99%) đến 1USD = 5,6055 FRF (5,5*101%).
         Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8 USD vàng bảo đảm. Lượng vàng đảm bảo đồ sộ như vậy nên cả thế giới tư bản chỉ lo có vàng để đổi lấy USD mà mua hàng Mỹ  chứ không quan tâm đến việc USD có đổi lấy vàng được không. Chính vì vậy, các nước có xu hướng chuyển đổi từ dự trữ vàng sang dự trữ USD để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ quốc tế của các nước vì Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không hạn chế USD ra vàng. Các nước ngày càng mở rộng thương mại với Mỹ, gia tăng dự trữ USD của họ, khiến cho sức hút USD ra ngoài ngày càng tăng. Tổng khối lượng USD trên toàn thế giới vào cuối năm 1944 là 28,5 tỷ USD, thì đến cuối năm 1968 đã lên đến gần 100 tỷ USD. Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp các nước mà không có gì bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc lộ những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được:
- Dự trữ không tương xứng: Do quy mô thương mại quốc tế ngày càng tăng gắn liền với những dòng vận động tiền tệ lớn, đòi hỏi các NHTW phải mua và bán khối lượng lớn đồng USD để duy trì tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Về dài hạn, một số ngân hàng nhận thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp ứng nhu cầu trên.
- Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả tương đối giữa các đổng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá  đã định theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi.
- Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác nhau về xuất nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và hàng loạt các nhân tố tác động khác đã làm cho có sự thay đổi tương đối về giá trị tương đối giữa các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nước đã xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho tỷ giá cố định.
Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Do đó, các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm cho cán cân thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng 3/1973) 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá (-10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ.
       Đây là chế độ tỷ giá hối đoái  mà ở đó Nhà nước, cụ thể là NHTW tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng dư cầu hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số dư đó.
- Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định:
+ Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh.
+ Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô.
+ Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá.
- Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định:
+ Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ thi trường hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá.
+ Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng.
+ Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không mong muốn.

Wednesday, December 3, 2014

Bật máy tính từ xa

Nguồn

Hiện nay đã có khá nhiều phần mềm điều khiển máy tính qua mạng Internet đơn giản hiệu quả. Tuy nhiên tất cả đều vấp phải 1 vấn đề là không có chương trình nào hoạt động trên một máy tính chưa bật.

Vào một ngày đẹp trời, bạn đến công ty nhưng chợt nhớ là đã quên vài file tài liệu quan trọng trong máy tính ở nhà. Đừng vội lo lắng vì bạn có thể sử dụng chức năng Remote Desktop để điều khiển máy tính ở nhà và lấy tài liệu. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này thì trước tiên máy của bạn phải được bật và đặt chế độ tự khởi động cùng Windows. Muốn bật được máy tính từ xa thông qua mạng Internet, card mạng của bạn phải hỗ trợ tính năng Wake on LAN. Tính năng này được hỗ trợ cho hầu hết các loại bo mạch chủ dành cho máy tính từ năm 2002 trở đi.
 
Dưới đây là các bước để giúp bạn khai thác tính năng Wake on LAN của Mainboard. Tất nhiên, có một chú ý nho nhỏ rằng máy tính của bạn phải cắm điện và dây mạng luôn thường trực.
 
Cài đặt trên máy cần bật :
 
- Chuột phải vào My Network Place( với Windows XP) hoặc Network( với Windows 7) > Properties > Change adapter settings.
 
 
- Click chuột phải vào card mạng bạn đang sử dụng và chọn Properties.
 
 
- Bấm Configure
 
- Chọn thẻ Advanced và tìm đến tên Wake on Magic Packet. Chọn giá trị Enable hoặc tên Wake on LAN với ValueMagic Packet.
 
 
- Khởi động lại máy, nháy Delete để vào BIOS Setup của Main rồi tìm đến mục Power Management. Trong mục này bạn tìm 1 dòng có tên Wake on LAN và chọn Enable.
 
- Mở hộp thoại Run gõ cmd để mở Command Prompt và gõ ipconfig /all để xem địa chỉ MAC của card mạng (Physical Address). Địa chỉ MAC của card mạng là duy nhất và mỗi card lại có một địa chỉ khác nhau. Để bật được máy các bạn cần gửi một gói Magic Packet đến máy cần bật, nếu địa chỉ khớp chức năng Wake On LAN sẽ được kích hoạt.
 
 
Sau khi cài đặt xong các bước trên các bạn đã có thể bật được máy tính bằng một máy khác trong mạng LAN bằng một chương trình gửi gói Magic Packet (có thể download tại đây).
 
 
Điền đầy đủ thông tin về IP, Subnet Mask và MAC của máy tính cần bật vào rồi bấmWake Me Up. Việc bật máy từ xa qua Internet cũng tương tự như vậy. Tuy nhiên do gói Magic Packet khi được truyền qua Modem sẽ bị tường lửa Modem chặn lại, vì vậy bạn cần điều chỉnh để Modem cho gói Magic Packet đi qua.
 
Mở trình duyệt của bạn lên và gõ Default Gateway vào thanh Addressbar (Default Gateway có thể xem tại bảng ipconfig /all ở trên). Một hộp thoại hiện ra yêu cầu bạn điền Username và Password của Modem, (Username và Password mặc định của từng loại Modem có thể xem tại đây).
 
 
Sau khi vào được trang Config của Modem các bạn tiến hành mở cổng mà gói Magic Packet sẽ đi qua. Dưới đây là ví dụ với Modem Zyxel.
 
Tại thanh Address của trình duyệt, các bạn gõ 192.168.1.1 nhấn Enter.
 
 
Điền UsernamePassword của Modem vào.
 
 
Vào thẻ Network > NAT > chọn thẻPort Forwarding. Ở dòng Service Name chọn User define.
 
 
Tại 2 ô Start PortEnd Port các bạn điền cổng mà mình muốn mở để gói Magic Packet đi qua. Dòng Server IP address điền 192.168.1.1 và nhớ đánh dấu Active.
 
 
Sau đó quay lại màn hình Config Modem chính, chọn Security > Firewall và bỏ dấu chọn ở dòng Active Firewall.
 
 
Để có thể tìm thấy modem của bạn trên Internet, các bạn cần xác định được địa chỉ IP mà nhà mạng cung cấp cho bạn bằng cách vào modem để xem hoặc kiểm tra tại đây. Cuối cùng bạn mở chương trình Wake on LAN vừa download ở trên và điền đầy đủ thông số với Remote Port Number là cổng bạn vừa tiến hành mở.
 
 
 Sau khi máy tính bật thì mọi việc còn lại được giao cho các chươ