Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước, do đó vấn đề thanh toán, định giá, so sánh ,phân tích đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều. Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc trao đổi tiền của nước khác. Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật của nước đó và đặc điểm riêng của nó, vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải so sánh giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau. Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế nhạy cảm và rất phức tạp. Kinh tế thị trường thường xuyên vận động thì tỷ giá hối đoái cũng như những hiện tượng kinh tế khác biến động là lẽ tất nhiên ,là hợp với quy luật vận động của sự vật, của hiện tượng. Tuy nhiên những diễn biến có tính bất thường, khác lạ của hiện tượng kinh tế tất phải do những nguyên nhân, hoặc do những trục trặc nào đó làm cho hiện tượng kinh tế đó diễn ra “chệch hướng” theo logic bình thường. Điều đó làm chúng ta phải thận trọng xem xét các nguyên nhân từ mọi phía,một cách toàn diện để có nhận thức, quan điểm đúng đắn, làm cơ sở tin cậy cho việc điều chỉnh các hoạt động thực tiễn.
1. Các yếu tố tác động tới tỷ giá
Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động,mức giá cả tương đối ở thị trường trong nước,thuế quan và hạn mức nhập khẩu,ưa thích hàng nội so với hàng ngoại.
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ. NSLĐ trong nước tăng lên tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập, dẫn đến sự gia tăng mức cầu của hàng nội dịa so với hàng ngoại nhập, làm cho hàng nội địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội tệ tăng lên(TGHĐ) giảm xuống và ngược lại. Thực tế trên thị trường thế giới TGHĐ của đồng tiền phụ thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó. Một nền kinh tế phát triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá của đồng tiền nước đó.
- Mức giá tương đối ở thị trường trong nước là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến TGHĐ. Theo thuyết mức giá cả tương đối, khi mức giá cả hàng nội địa tăng tương đối so với hàng ngoại nhập thì cầu của hàng nội địa sẽ giảm xuống và đồng nội địa có xu hướng giảm giá để cho hàng nội bán được tốt hơn và ngược lại nó sẽ làm đồng nội tệ có xu hướng tăng giá, bởi vì hàng nội địa vẫn bán tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ.
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu. Chính công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm tăng giả cả của hàng ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước. Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá,bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ.Cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá.
2. Các công cụ điều hành chính sách tỷ giá hối đoái.
- Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức báo động cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng nên lãi suất trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi suất cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu về ngoại tệ sẽ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa. Lãi suất do quan hệ cung cầu của vốn vay quyết định. Còn tỷ giá thì do quan hệ cung cầu về ngoại tệ quyết định. Điều này có nghĩa là những yếu tố để hình thành tỷ giá và lãi suất là không giống nhau, do vậy mà biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá.
- Các nghiệp vụ của thị trường hối đoái : Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp quan trọng nhất của nhà nước để giữ vững ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Việc mua bán ngoại tệ được thực hiện trên nguyên tắc diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp mang tính chất chủ quan của nhà nước. Việc can thiệp này phải là hành động có cân nhắc, tính toán những nhân tố thực tại cũng như chiều hướng phát triển trong tương lai của kinh tế, thị trường tiền tệ và giá cả.
- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia. Khi ngoại tệ vào nhiều, thì sử dụng quỹ này để mua nhằm hạn chế mức độ mất giá của đồng ngoại tệ. Ngược lại, trong trường hợp vốn vay chạy ra nước ngoài quỹ bình ổn hối đoái tung ngoại tệ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành để ngăn chặn giá ngoại tệ tăng. Theo phương pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt , quỹ bình ổn hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán, khi ngoại tệ và nhiều, quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để thu ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái.
No comments:
Post a Comment